Quy tắc 10,000 giờ của những kẻ xuất chúng – Malcolm Gladwell
Quy tắc 10,000 giờ của những kẻ
xuất chúng – Malcolm Gladwell
…”Kết quả của những nghiên cứu đã chứng minh: 10,000 giờ đồng hồ luyện
tập là đòi hỏi bắt buộc để đạt được cấp độ tinh thông và khả năng trở thành một
chuyên gia đẳng cấp thế giới – trong bất kỳ lĩnh vực nào”.
I. Thiên tài “không bẩm sinh”
@Ngài Malcolm Gladwell: Trong suốt gần một thế hệ, các nhà tâm lý học
trên khắp thế giới đã tham gia vào cuộc tranh luận hăng say xung quanh câu hỏi:
phải chăng hầu hết sốp hận chúng ta (destiny) có thể coi là đã được định hình từ
xa xưa, từ khi sinh ra? Có tồn tại thứ gì đó dạng như tài năng bẩm sinh hay
không?
Vâng câu trả lời là có. Chỉ có một
số ít vận động viên, hay một số ít nhà văn, hay doanh nhân đạt được đến đỉnh
thành công của mình. Song khi các nhà nghiên cứu càng đi sâu vào cuộc đời của
những kẻ xuất chúng được cho là “bẩm sinh” như trên, thì người ta lại thấy vai
trò của tài năng thiên bẩm càng nhỏ bé hơn so với quá trình chuẩn bị dai dẳng
mà ít người biết đến.
Đầu 1990, trong một cuộc tranh luận
về tài năng, nhà tâm lý học Anders Ericsson và cộng sự đã đi đến một học viện
Âm nhạc để làm một nghiên cứu. Nhờ sự trợ giúp của các giáo sư nơi đây, ông tìm
lại các cựu sinh viên ở nhạc viện, và phân thành ba nhóm: (1) nghệ sĩ solo đẳng
cấp thế giới (2) nhóm nghệ sĩ được đánh giá là “tốt” (3) các sinh viên không thực
sự đam mê và trở thành giáo viên nhạc cụ trong hệ trường công.
Ngạc nhiên thay, khi Ericsson tìm
gặp họ, đặt câu hỏi và thống kê lại, thì một hình mẫu lại nổi lên: những người
chơi nghiệp dư, giáo viên không bao giờ luyện tập nhiều hơn 3 giờ/tuần trong suốt
thời thơ ấu, cho đến khi đạt độ tuổi đôi mươi, họ chỉ mới có 2,000 giờ luyện tập.
Ở phía còn lại, thời gian luyện tập của những nghệ sĩ chuyên nghiệp đã vượt trội
hơn rất nhiều, non đến năm 20 tuổi, họ đã tích lũy cho mình trung bình đến
10,000 giờ luyện tập.
Điều vô cùng nổi bật trong nghiên
cứu của Ericsson, chính là việc ông và các đồng sự không thể tìm ra bất cứ
“thiên tài bẩm sinh” nào mà lại luyện tập với thời gian ít hơn các bạn đồng
trang lứa bỏ ra (!) Hay cả ngược lại, họ cũng không thể tìm ra bất cứ “kẻ cần
cù” nào – những người làm việc chăm chỉ hơn tất cả kẻ khác, mà lại không hội tụ
đủ những gì cần thiết để lọt vào tốp xuất sắc nhất. Những kẻ ngự trị trên đỉnh
cao không chỉ làm việc chăm chỉ hơn, hay chăm chỉ hơn nhiều so với người kẻ
khác – họ làm việc chăm chỉ hơn rất, rất, rất nhiều!
Ý tưởng then chốt rằng: để thực
hiện hoàn hảo một nhiệm vụ phức hợp đòi hỏi một mức độ luyện tập tối thiểu, đã
xuất hiện lặp đi lặp lại trong các nghiên cứu về tài năng chuyên môn ở nhiều
lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, nếu tổng hợp lại, thì các nhà nghiên cứu có một
niềm tin bất tận về một con số thời gian kỳ diệu để đạt đến độ tinh thông thực
sự: 10,000 giờ đồng hồ!
II. Quy tắc 10,000 giờ của những kẻ xuất chúng
Bác sĩ thần kinh học Daniel Levitin
viết: “Trong những nghiên cứu khác nhau về các nhà soạn nhạc, cầu thủ bóng rổ,
các cây bút sáng tác tiểu thuyết, vận động viên trượt băng, nghệ sĩ dương cầm,
tuyển thủ cờ vua, các doanh nhân công nghệ hay cả những tên tội phạm lão luyện,
… hằng số 10,000 giờ này luôn luôn lặp lại. Tất nhiên vẫn có người thu hoạch được
nhiều hơn từ những buổi luyện tập hơn người khác, song tới nay chưa ai tìm thấy
một trường hợp nào trong đó một tay lão luyện tầm cỡ thế giới lại đạt được mức
hoàn thiện trong thời gian ngắn hơn mười nghìn giờ.” Điều này là thật sự ngay cả
với những nhân vật mà chúng ta thường hay nghĩ đến như hạng “phi thường bẩm
sinh”.
Nhà phê bình âm nhạc Harold
Schonberg đã gây sốc khi cho rằng Mozart, một người tưởng chừng như một thiên
tài biết viết nhạc khi mới lên sáu, thực ra thuộc hạng “phát triển muộn”! Bởi
vì ông này phải sau hơn 20 năm sáng tác ròng rã với những tác phẩm tương đối thất
bại và những bài soạn lại từ tác phẩm khác, ông mới cho ra đời những tác phẩm
vĩ đại nhất thế giới của mình.
Để trở thành một kiện tướng cờ
vua có vẻ cũng phải mất 10 năm. Chỉ có huyền thoại Bobby Fischer đạt tới đẳng cấp
tinh hoa đó trong khoảng thời gian ngắn hơn một chút: 9 năm. Còn mười năm là thứ
gì vậy? À vâng, đó đại khái là chuyện mất bao lâu (@S.A.F.E: trung bình của 10
năm, mỗi năm 1,000 giờ, tương ứng mỗi tuần 20 giờ và mỗi ngày 3 giờ rèn luyện)
để thực hiện được 10,000 giờ luyện tập nghiêm chỉnh. Mười nghìn giờ là con số
thần kỳ của sự vĩ đại, bởi vì luyện tập không phải là thứ bạn làm khi đã thành
công. Nó là thứ bạn buộc phải làm để
khiến mình trở thành bậc xuất chúng!
@S.A.F.E team: Chúng tôi biết rằng nhiều độc giả đến đây, sẽ phản
biện rằng: “Có rất nhiều người ngoài kia đi làm công chăm chỉ hằng ngày, ấy vậy
mà có tiến xa được đâu. Ta phải làm việc thông minh chứ không phải chăm chỉ!”
Chúng tôi cho rằng nhận định này
có phần đúng – chúng tôi cũng tin rằng một người nếu có tầm nhìn và định hướng bản thân tốt, sẽ có khả năng thành công
cao hơn so với những người đồng trang lứa. Song nếu ta hiểu sâu và tổng thể
hơn, thì ta lại thấy quan điểm “Work smart > work hard” sai lầm vô cùng! Đó
là bởi vì: (1) Liệu anh có chắc rằng tất cả những người làm công ngoài kia đều
chăm chỉ hay không, họ dành bao nhiêu thời gian để rèn giũa kĩ năng, bao nhiêu
thời gian để giải trí? (2) Nếu anh không chăm chỉ thử nhiều cách làm để hiểu
sâu, thì làm sao anh biết được đâu mới là cách làm thông minh? (3) Nếu anh
không chăm chỉ một cách đều đặn, anh có chắc rằng anh sẽ thông minh hơn những đối
thủ cạnh tranh chăm chỉ đều đặn khác trong vòng 10 năm tới hay không?
Ngay cả ngài Buffett, được nhiều người cho là thông minh bậc nhất và có óc
tính toán thiên bẩm, thật ra bắt đầu kiếm được 1 triệu USD đầu tiên khi ông 30
tuổi, tức gần 20 năm sau khi ông mua cổ phiếu đầu tiên cho mình vào năm 11 tuổi.
Trải qua gần 20 năm ấy, đọc tiểu sử của ông, chúng tôi mới thấy ông siêng năng
khôn cùng: ông đọc báo cáo tài chính gần như mỗi ngày sau khi đã thấm nhuần triết
lý của ngài Graham. Ông năng đi gặp ban lãnh đạo, thăm trụ sở công ty, trò chuyện
với bề trên, đọc sách, đọc tạp chí chuyên ngành, đọc tin tức kinh tế lịch sử, đến
mực ngài Munger phải mệnh danh ông
là “cái máy học” (a learning machine).
Tuy nhiên, rõ ràng ngài Buffett cũng gặp điều kiện vô cùng
may mắn khi được sinh ra ở đất Hoa Kỳ văn minh, được bố mẹ khuyến khích đầu tư
chứng khoán từ rất sớm và được học triết lý đúng đắn trực tiếp từ ngài Benjamin Graham trong cả trường đại
học lẫn công việc. Vì lẽ đó, ngài
Malcolm Gladwell mới đưa ra một luận điểm cuối cùng về “cơ hội phụ trội”
may mắn trong đời người…
III. “Cơ hội rèn luyện đặc biệt”
@Ngài Malcolm Gladwell: Nếu chúng ta bới sâu xuống dưới bề ngoài của
những người thành công vĩ đại, thì liệu chúng ta có tìm thấy một kiểu cơ hội
luyện tập đặc biệt nào đó hay không? Hãy kiểm nghiệm ý tưởng này bằng 2 ví dụ, mà cả 2 đều gần gũi: một
là nhóm nhạc Beatles – nhóm nhạc
rock jazz nổi danh nhất từ trước đến nay, và hai là tỷ phú công nghệ Bill Gates.
Vào năm 1960, Beatles chỉ là một
nhóm nhạc vô danh của trường trung học với 4 thành viên đi dò dẫm tìm đường. Rồi
một hôm, họ được mời đến chơi nhạc ở Hamburg, Đức bởi một ông chủ câu lạc bộ
thoát y thâu đêm suốt sáng tên Bruno. Có điều gì đặc biệt ở cái “phố đèn đỏ”
Hamburg này hay không? Không hề! Trả công hậu hĩ cũng không. Âm thanh tốt cũng
không. Khán giả cũng chắng biết gì về âm nhạc. Tất cả chỉ là khối lượng thời
gian tuyệt đối mà nhóm nhạc phải chơi. Sau này Beatles mới thú nhận rằng: “Ở Liverpool, chúng tôi mới chỉ chơi những suất
dài có 1 giờ đồng hồ mà thôi. Ở Hamburg, chúng tôi phải chơi suốt 8 tiếng đồng
hồ liên tục, 7 ngày một tuần.” 8 tiếng, 7 ngày/tuần suốt từ 1960–1964? Vâng
đúng vậy, thử thách gắt gao ở Hamburg là một trong những điều khiến Beatles
khác biệt với các nhóm nhạc khác hoàn toàn. Họ không chỉ học được khả năng chịu
đựng, mà còn phải học khối lượng lớn các ca khúc và cách phối rock & roll với
nhạc jazz cho khán giả đỡ nhàm. Lúc đi họ chẳng có gì cả. Lúc trở về họ đã trở
nên rất cừ!
Hồi năm 1968, trong lúc các học
trò khác lo vui chơi, thì Bill Gates đã “sống với máy tính” ở trường trung học
Lakeside. Toàn bộ ý tưởng về ứng dụng của máy tính chỉ mới bắt đầu vào năm
1965, Bill Gates chắc chắn là số may mắn đầu tiên được tiếp cận với máy tính. Đến
khi lên đại học Harvard, năm 1971, Bill Gates và các người bạn của mình – Paul
Allen, đã sử dụng máy tính “chùa” tại trung tâm dữ liệu ISI, Washington đến
1,575 giờ đồng hồ trong suốt 7 tháng, trung bình là 8 tiếng/ngày suốt 7 ngày
trong tuần. “Đó là nỗi ám ảnh với tôi.”
– Gates kể lại – “Tôi bỏ tiết thể dục.
Tôi đến đó thâu đêm suốt sáng. Tôi đến đó vào cuối tuần. Nhiều lúc mẹ tôi không
hiểu tại sao tôi lại khổ sở khi thức dậy mỗi buổi sáng đến như vậy!” Khoảng
thời gian từ trung học đến lúc ấy chính là cơ hội rèn luyện phụ trội đặc biệt
mà Gates đã chớp được. Mấy ai có đủ điều kiện tài chính và đủ tầm nhìn để kiên
trì với lập trình máy tính vào thập niên 1960s như vậy? Từ 1968 – 1975 lúc
Gates nghỉ học năm 2 tại Harvard, ông đã tích lũy được 7 năm lập trình liên tục
– một cậu Gates trẻ 20 tuổi đã có hơn 10,000 giờ luyện tập, và đã “dọn đường” sẵn
cho con đường trở thành tỷ phú của mình trong tương lai.
Đọc trên báo chí và các bài viết
tiểu sử của các người thành công ngày nay, chúng ta vờ rằng thành công
(success) chỉ riêng rẽ là chuyện của công trạng cá nhân. Những chẳng có gì
trong số những đoạn tiểu sử mà chúng ta vừa xem qua nói rằng mọi thứ chỉ đơn giản
có vậy. Cụ thể hơn, đó đều là câu chuyện về những con người được trao tặng cơ hội vàng để làm việc chăm chỉ thực sự
và họ đã nắm chặt lấy nó, tình cờ đủ trưởng thành vào thời điểm mà mọi nỗ lực ấy
bắt đầu được xã hội tưởng thưởng một cách xứng đáng!
IV. Kết luận
@S.A.F.E team: Chúng tôi tạm dừng lại khám phá có tầm ảnh hưởng bậc
nhất lịch sử của ngài Gladwell ở đó, để lại trong ta rất nhiều động lực để phấn
đấu phát triển bản thân. Ở thời điểm hiện tại, khi mà chỉ mới 0.2% dân số hiểu
biết và tham gia đầu tư chứng khoán, và cũng như còn rất nhiều ngành nghề tại
Việt Nam có dư địa phát triển trong kỷ nguyên số trên nền tảng Internet
(digital era) như dịch vụ giải trí/du lịch/bán lẻ/sức khỏe/ăn uống, thương mại
điện tử, fintech, ứng dụng mobile, dữ liệu, digital marketing, tự động hóa,
IoT, robots, v.v, chúng tôi tin rằng trong 10-20 năm tới, “cơ hội vàng” mở ra cho những người chăm chỉ, thông minh là vô cùng,
vô cùng lớn!
Nhiều đọc giả sẽ hỏi cụ thể hơn
trong ngành đầu tư (investment) này thì phải chăm chỉ như thế nào? Lời khuyên của
chúng tôi là hãy đọc, đọc và đọc thật nhiều. Đừng đọc những thứ vô nghĩa trên bảng
điện, diễn đàn, kênh báo chí và những dự đoán bởi CTCK nhiễu loạn (!) Ta hay tập
đọc báo cáo tài chính đều mỗi tuần, đọc sách để hiểu được tư duy của những nhà
đầu tư huyền thoại, đọc tạp chí chuyên ngành, cập nhật kinh tế và tin tức thế
giới, đọc lịch sử và những bài học sai lầm…., Chẳng sớm thì chầy, khối óc ta sẽ
trở nên đồ sộ - giúp ta không dễ bị thị trường lừa gạt và không dễ bị tâm lý
chi phối nữa, thậm chí còn có tầm nhìn phi thường, chớp được cơ hội mà đám đông
không nhận ra.
Như ngài Joel Greenblatt đã từng nói: “Rèn luyện không chỉ tạo nên sự
hoàn hảo. Rèn luyện giúp ta tạo nên sự vĩnh viễn.”
nguồn Newslettervietnam - https://newslettervietnam.com/quy-tac-10000-gio-cua-nhung-ke-xuat-chung-malcolm-gladwell/
THAM GIA TRANH TOP BÌNH LUẬN NGAY!
Một số lưu ý khi bình luận
Mọi bình luận sai nội quy sẽ bị xóa mà không cần báo trước (xem nội quy).
Bấm Thông báo cho tôi bên dưới khung bình luận để nhận thông báo khi admin trả lời.
Bạn có thể dùng ảnh động hoặc mã hóa code HTML để bình luận.