ĐI MUA SẮM ĐỂ TÌM CỔ PHIẾU
photo Internet
ĐI MUA SẮM ĐỂ TÌM CỔ PHIẾU
Burlington Mall nằm cách quê
hương Marblehead của tôi 25 dặm. Đó là một khu phố buôn bán sầm uất với nhiều
loại hình kinh doanh, và các sản phẩm da dạng, thật sự là một môi trường rất
thuận lợi để nghiên cứu những cổ phiếu lớn. Ở đây, vào bất kỳ ngày nào trong tuần,
kể cả người mua cổ phiếu chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư đều có thể điều tra
xem các công ty đại chúng đang trên đà tăng trưởng, suy giảm, trước nguy cơ bị
đóng cửa, hay đang đứng yên. Đi lang thang quanh khu thương mại này còn thiết
thực hơn nhiều so với việc tin vào lời khuyên của một nhà môi giới chứng khoán
hoặc lùng sục những tờ tạp chí tài chính để tìm kiếm mẹo mới nhất.
Rất nhiều nhà đầu tư xuất sắc nhất
mọi thời đại đã bắt đầu từ những nơi có hàng triệu người tiêu dùng qua lại thường
xuyên. Năm 1986, nếu đầu tư 10.000 đô-la vào một trong bốn doanh nghiệp bán lẻ
nổi tiếng – Home Depot, the Limited, Gap và Wal-Mart – và nắm giữ chúng trong
năm năm, thì đến cuối năm 1991, giá trị khoản đầu tư sẽ tăng lên thành hơn
500.000 đô-la.
Trên đường lái xe đến Burlington
Mall, tôi nhớ lại rất nhiều doanh nghiệp bán lẻ khác mà trước đây tôi từng mua
và bán cổ phiếu của chúng – ra khỏi Marblehead, tôi đi qua hai cửa hàng Radio
Shacks (thuộc sở hữu của Tandy – nếu đầu tư 10.000 đô-la vào cổ phiếu này vào đầu
thập niên 1970 thì đến năm 1982, khi giá cổ phiếu đạt đỉnh, bạn có thể thu được
1 triệu đôla); một cửa hàng Toys “R” Us, doanh nghiệp có cổ phiếu tăng từ 25 xu
lên 36 đô-la; một cửa hàng Kids “R” Us; một trung tâm mua sắm Ames, nhắc nhở
tôi rằng mức thấp nhất của cổ phiếu là 0; và một cửa hàng của LensCrafters, một
bộ phận lớn có vấn đề gây cản trở U.S. Shoe.
Tôi đến Burlington từ phía bắc
theo Xa lộ 128 – khởi nguồn của nhiều cổ phiếu công nghệ tăng trưởng nổi tiếng
trong thập niên 1960, như Polaroid và EG&G, vùng này chính là Thung lũng
Silicon đầu tiên của nước Mỹ. Bên kia đoạn dốc của xa lộ, tôi lướt qua một
khách sạn Howard Johnson’s, một cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ đáng kể trong
những năm 1950; Taco Bell, một cổ phiếu có tốc độ tăng trưởng kỳ diệu cho đến
khi Pepsi tiếp quản công ty, từ đó, thu nhập của Pepsi cũng tăng lên; và một
nhà hàng Chili’s (nằm trong chuỗi nhà hàng có mã cổ phiếu hấp dẫn, EAT), là cổ
phiếu mà tôi đã bỏ lỡ mặc dù các con tôi luôn đề xuất, vì tôi vẫn tự nhủ: “Ai cần
một nhà hàng khác kiểu Chili’s cơ chứ?”
Bãi đỗ xe của Burlington Mall xấp
xỉ bằng quy mô của toàn bộ khu trung tâm thị trấn Marblehead, và lúc nào cũng
chứa đầy xe. Ở cuối của bãi, có một trung tâm chăm sóc xe, tại đây có quảng cáo
lốp xe Goodyear, một cổ phiếu tôi từng mua với giá 65 đô-la và cảm thấy hối tiếc,
mặc dù sau này nó cũng tăng trưởng trở lại.
Tòa nhà chính được thiết kế theo
hình dáng một chữ thập khổng lồ, nằm ở phía đông là Jordan Marsh và ở phía nam
là Filene’s, cả hai trước đây đều thuộc sở hữu của ông trùm xây dựng Robert
Campeau. Một hôm, Campeau bất chợt đến văn phòng của tôi, mang theo đầy đủ những
thông tin và số liệu về hoạt động bán lẻ, và tôi nhận thấy kiến thức của ông về
những con số này ấn tượng đến mức tôi đã mua cổ phiếu của tập đoàn Campeau, lại
một sai lầm khác. Về phía bắc, thì có Lord & Taylor, hiện nay là một bộ phận
của trung tâm mua sắm May, một công ty tăng trưởng rất mạnh. Trung tâm mua sắm
Sears nằm ở phía tây là một tập đoàn đạt mức tăng trưởng kỷ lục cách đây 20
năm, và từ đó đến nay vẫn chưa lặp lại mức đỉnh điểm đó.
Không gian bên trong khu phố buôn
bán lớn khiến tôi nhớ đến một quảng trường cổ với những hồ nước nhỏ, ghế đá
công viên, cây đại thụ và một khu vực dành cho những đôi bạn trẻ yêu nhau say đắm
và người cao tuổi đi dạo. Ở đây, đối diện công viên là một khu nhà ở gồm bốn
căn hộ ở phía cuối hành lang; và có tới 160 doanh nghiệp khác nhau nằm ở hai tầng
khu trung tâm thương mại, nơi mọi người có thể đi dạo qua để xem hàng.
Tuy nhiên, với tôi thì đó không
phải chỉ là việc đi dạo để xem hàng hóa, mà đó là công việc phân tích cơ bản
danh sách thú vị những khoản đầu tư tiềm năng, được bố trí cạnh nhau để thuận lợi
cho những người tìm mua cổ phiếu. Việc này có lẽ đem lại nhiều triển vọng hơn
là những gì bạn khám phá ra sau một tháng tham dự các buổi thảo luận về đầu tư.
Việc Burlington Mall thiếu một
văn phòng môi giới là điều quá tệ, vì có thể ở đây cả ngày để thực hiện công việc
kiểm tra các giao dịch đến và đi tại các cửa hàng, sau đó chuyển tới nhà môi giới
để đặt thêm lệnh mua những loại cổ phiếu nhiều người muốn mua nhất. Kỹ thuật
này không phải ai cũng có thể hiểu được, nhưng tôi vẫn dành ưu tiên cho việc
này hơn là việc mua cổ phiếu chỉ vì mọi người yêu thích chúng. Điều này dẫn đến
Quy tắc 14 của Peter:
“Nếu bạn thích một cửa hàng, có thể bạn sẽ thích cổ phiếu của công ty
sở hữu cửa hàng đó”
Sự đồng nhất của thị hiếu trong ẩm
thực và thời trang tạo nên sự giàu có cho các chủ sở hữu những công ty bán lẻ
và cung cấp dịch vụ nhà hàng. Những mặt hàng bán ở thị trấn này chắc chắn sẽ xuất
hiện ở thị trấn khác, chẳng hạn như bánh ngọt, nước tinh khiết, hamburger, băng
đĩa, bảo hiểm dành cho nhà dưỡng lão, bít tất, quần dài, váy dài, dụng cụ làm
vườn, sữa chua, tổ chức đám tang. Người mua cổ phiếu tới cửa hàng Home Depot ở
Westward Ho, Atlanta; hoặc nhà hàng Taco Bell tại Eastward Ho, California; cửa
hàng Lands’ End ở Southward Ho, Wisconsin; hoặc siêu thị Wal-Mart ở Northward
Ho, Arkansas; hay cửa hiệu the Limited hoặc cửa hàng the Gap ở Coastward Ho,
vùng trung tây; cuối cùng sẽ có đủ tiền để đi du lịch thế giới và rời xa khỏi
khu phố buôn bán rộng lớn và những chuỗi cửa hàng.
Tôi bắt đầu thích thú lĩnh vực
bán lẻ kể từ khi được giới thiệu về Levitz Furniture vào những năm đầu khi cổ
phiếu này tăng gấp 100 lần – một trải nghiệm không thể quên. Những công ty này
không phải lúc nào cũng thành công, nhưng ít nhất dễ dàng giám sát tiến độ phát
triển của chúng cũng chính là một đặc điểm hấp dẫn khác. Bạn có thể chờ đợi một
chuỗi các cửa hàng tự chứng tỏ hoạt động hiệu quả ở một vùng, sau đó quảng bá
trên đường phố và thâm nhập đến nhiều vùng khác trước khi bạn đầu tư.
Nhân viên làm việc tại các khu phố
buôn bán này có góc nhìn của những người trong cuộc, họ chứng kiến những gì diễn
ra hàng ngày, và còn biết những lời nhận xét của đồng nghiệp về việc cửa hàng
nào sẽ phát triển, cửa hàng nào không. Những nhà quản lý của các khu phố buôn
bán có nhiều lợi thế hơn cả – do được tiếp cận với số liệu doanh thu hàng tháng
được sử dụng để tính toán tiền thuê cửa hàng. Bất kỳ người chủ cửa hàng nào
không mua cổ phần của the Gap hay the Limited, mặc dù là người đầu tiên biết đến
thành công mà những cửa hàng này đang có từ tháng này qua tháng khác, thật đáng
đeo biển “tôi là kẻ ngốc” dạo khắp phố. Ngay cả Ivan Boesky cũng chưa bao giờ
có được thông tin tốt hơn thế – để lừa đảo.
Gia đình Lynch chúng tôi không có
người thân nào làm chủ các khu phố buôn bán sầm uất, nếu có tôi sẽ mời họ đến
dùng bữa tối ba hoặc bốn lần mỗi tuần. Nhưng chúng tôi lại có những người hay
đi mua sắm. Vợ tôi, Carolyn, không nghiên cứu như trước đây, nhưng ba cô con
gái của tôi lại có thể bù đắp điều này cho mẹ của chúng. Phải mất một khoảng thời
gian nhất định tôi mới ý thức được khả năng phân tích xuất sắc của chúng.
Cách đây vài năm, một hôm khi tôi
đang ngồi ở bàn ăn, Annie hỏi tôi: “Clearly Canadian có phải là một công ty đại
chúng không ạ?,” đây là loại câu hỏi được gia đình tôi khuyến khích đưa ra. Tôi
cũng biết chúng thích loại nước ngọt này, bởi vì trong tủ lạnh lúc nào cũng đầy
ắp những chai nước Clearly Canadian, nhưng thay vì thực hiện theo lời gợi ý và
làm công việc của mình, tôi tìm nó trong cuốn sổ S&P, nhưng không thấy cái
tên này được liệt kê trong danh sách, vì vậy tôi cũng nhanh chóng lãng quên nó.
Về sau tôi mới biết được rằng
Clearly Canadian được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán Canada nhưng
chưa có tên trong sổ sách của S&P. Việc tôi bỏ qua và không theo đuổi cổ
phiếu này là một điều rất đáng tiếc. Sau khi Clearly Canadian được chào bán lần
đầu ra công chúng vào năm 1991, giá cổ phiếu này lập tức tăng từ 3 đô-la lên
26,75 đô-la, nghĩa là tăng gần chín lần chỉ trong một năm, trước khi quay trở về
mức 15 đô-la. Có được mức lợi nhuận như vậy trong một thập kỷ cũng là tín hiệu
đáng mừng. Một điều chắc chắn là mức lợi nhuận này cao hơn tất cả những cổ phiếu
mà tôi khuyến nghị trên tạp chí Barron’s vào năm 1991.
Ngoài ra, tôi còn bỏ qua những
tin tức tích cực về chuỗi nhà hàng Chili’s. Ba cô con gái tôi thường mặc những
chiếc áo phông mũ màu xanh lá cây của Chili’s đi ngủ, điều này làm tôi nhớ ra
mình đã thật ngốc nghếch đến thế nào khi không thực hiện khoản đầu tư theo gợi
ý của chúng nghiêm túc hơn. Có bao nhiêu bậc cha mẹ thực hiện theo ý kiến tư vấn
tồi của hàng xóm và mua cổ phần của một doanh nghiệp khai thác mỏ vàng hay một
tập đoàn bất động sản thương mại, thay vì theo con cái họ đến những khu buôn
bán, nơi mà sẽ dẫn họ trực tiếp đến với the Gap và mức lợi nhuận đạt 1000%
trong từ năm 1986 đến 1991? Ngay cả khi đến tận năm 1991 họ mới theo con mình đến
với the Gap, thì họ vẫn có thể tăng gấp đôi số vốn chỉ trong một năm đó và đánh
bại tất cả các quỹ nổi tiếng khác.
Chúng tôi muốn nghĩ rằng các con
mình là duy nhất, và cũng là một phần trong số rất nhiều tín đồ mua sắm trên thế
giới có cùng thị hiếu về mũ lưỡi trai, áo phông, tất, và quần bò nhăn, vì vậy,
khi Mary, con gái lớn của tôi, có chiếc tủ chứa đầy quần áo của Gap, thì bạn có
thể đưa ra một giả định chắc chắn rằng giới trẻ trên toàn quốc sẽ có cùng thị
hiếu này.
Mary là người đề xướng những
thông tin về the Gap vào mùa hè năm 1990, bằng việc mua vài tủ quần áo học sinh
từ một cửa hàng trên tầng hai của Burlington Mall. (Thêm một lời khuyên nữa từ
người cựu chiến binh canh gác khu phố: ở những khu phố buôn bán có hai tầng, hầu
hết những cửa hàng bán lẻ nổi tiếng đều nằm trên tầng hai. Những người quản lý
bố trí theo cách này để sao cho càng có nhiều khách hàng ghé qua các cửa hàng
càng tốt, nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao nhất). Khi the Gap trở thành một
cửa hàng bán quần bò, con bé có đánh giá thấp về cửa hàng này, nhưng cũng như
hàng nghìn đứa trẻ khác, nó vẫn bị hấp dẫn bởi mặt hàng mới mẻ đầy màu sắc này.
Một lần nữa, tôi lại bỏ qua tín hiệu mua mạnh mẽ này, cũng giống như trường hợp
Chili’s và Clearly Canadian. Đến năm 1992, tôi quyết tâm sẽ không lặp lại sai lầm
này nữa.
Yếu tố hấp dẫn nhất của bất kỳ
công ty nào trong số những công ty bán lẻ tăng trưởng nhanh trên đây, dù đó là
Body Shop, Wal-Mart, hay Toys “R” Us, là ở chỗ bạn phải dành bao nhiêu thời
gian để theo kịp chúng. Bạn có thể chấp nhận chờ đợi để hiểu rõ về cổ phiếu trước
khi đầu tư vào chúng. Nhưng bạn không cần phải ồ ạt mua cổ phần trong khi nhà
sáng chế ra các sản phẩm dưỡng da của Body Shop vẫn còn đang thử nghiệm chúng.
Bạn không cần phải mua cổ phần khi đã có tới 100 cửa hàng Body Shop xuất hiện ở
Anh, hoặc thậm chí 300 hoặc 400 cửa hàng này xuất hiện trên toàn thế giới. Tám
năm sau đợt chào bán đầu tiên ra công chúng, khi bọn trẻ dẫn tôi đến cửa hàng
này tại Burlington, vẫn chưa phải là phải thời điểm quá muộn để đầu tư vào ý tưởng
này vì rõ ràng là nó chưa được hoàn chỉnh.
Nếu có bất kỳ ai nói với bạn rằng
một cổ phiếu nào đó đã từng tăng tới 10 lần hoặc 50 lần thì có thể sẽ không thể
tăng cao hơn được nữa, hãy chỉ cho người đó thấy biểu đồ tăng trưởng của
Wal-Mart. Cách đây 23 năm, vào năm 1970, Wal-Mart chào bán cổ phần ra công
chúng với 38 cửa hàng, hầu hết đều ở Arkansas. Năm năm sau đợt chào bán đầu
tiên, vào năm 1975, Wal-Mart có 104 cửa hàng và giá cổ phiếu tăng gấp bốn lần.
Mười năm sau đợt chào bán đầu tiên, năm 1980, con số cửa hàng của Wal-Mart là
276, còn giá cổ phiếu tăng gấp 20 lần.
Nhiều cư dân may mắn ở
Bentonville, Arkansas, quê hương của người sáng lập ra Wal-Mart, ông Sam
Walton, vừa qua đời trong thời gian gần đây, đã đầu tư ngay trong đợt chào bán
cổ phần đầu tiên của tập đoàn bán lẻ này và thu về khoản lợi nhuận gấp 20 lần
ngay trong thập niên đầu tiên. Liệu đó có phải là thời điểm bạn nên bán chứ
không nên tham lam giữ lại và chuyển sang đầu tư tiền vào lĩnh vực máy tính?
Câu trả lời là không nếu họ tin tưởng vào việc tạo ra lợi nhuận. Bản thân cổ phiếu
không quan tâm đến việc ai là người sở hữu nó, và vấn đề về tham lam chỉ nên giải
quyết tại nhà thờ hoặc tại phòng khám của một chuyên gia tâm lý chứ không phải
trong tài khoản lương hưu.
Vấn đề quan trọng cần phân tích ở
đây không phải là việc liệu cổ phiếu Wal-Mart có trừng phạt tính tham lam của cổ
đông hay không, mà là liệu công ty có làm cho thị trường bị bão hòa hay không.
Câu trả lời rất đơn giản: ngay cả trong những năm 1970, sau khi đã tính toán lợi
nhuận từ cổ phiếu và thu nhập, chỉ có 15% diện tích đất nước có cửa hàng kinh
doanh của WalMart. Còn 85% còn lại, công ty vẫn có thể phát triển.
Bạn cũng có thể mua cổ phiếu của
Wal-Mart vào năm 1980, mười năm sau lần chào bán đầu tiên ra công chúng, sau
khi lợi nhuận tăng gấp 20 lần, và Sam Walton đã trở nên nổi tiếng là nhà tỷ phú
lái chiếc xe chở hàng nhỏ. Nếu bạn nắm giữ cổ phiếu từ năm 1980 đến 1990, lợi
nhuận của bạn có thể đã tăng gấp 30 lần, và đến năm 1991, lợi nhuận mà bạn thu
được từ WalMart sẽ tăng thêm 60% nữa, nghĩa là giá trị vốn của bạn tăng tới 50
lần trong vòng 11 năm. Đó là lý do vì sao những cổ đông kiên trì ban đầu có
tham vọng, nay đã trở thành những người đứng đầu trong danh sách các cổ đông có
lợi nhuận tăng gấp 20 lần. Họ cũng không cần phải trả khoản phí nào cho các
chuyên gia tâm lý.
Với một công ty bán lẻ hoặc một
chuỗi nhà hàng, tăng trưởng thường thúc đẩy lợi nhuận và giá cổ phiếu biến động
chủ yếu do mở rộng mạng lưới. Miễn là doanh thu bán lẻ của các cửa hàng vẫn
tăng lên (số liệu này được trình bày trong các bản báo cáo năm và báo cáo quý),
công ty không bị phá sản do nợ vượt mức, và vẫn thực hiện theo kế hoạch mở rộng
hoạt động đúng như nội dung trình bày trong các bản báo cáo gửi các cổ đông, và
như vậy, nó sẽ trả cổ tức cho những nhà đầu tư nào kiên trì nắm giữ cổ phiếu của
công ty.
Trích trong cuốn "Beating the Street"
của tác giả Peter Lynch & John Rothchild
nguồn VOT PARTNERS --- https://votpartners.com/
THAM GIA TRANH TOP BÌNH LUẬN NGAY!
Một số lưu ý khi bình luận
Mọi bình luận sai nội quy sẽ bị xóa mà không cần báo trước (xem nội quy).
Bấm Thông báo cho tôi bên dưới khung bình luận để nhận thông báo khi admin trả lời.
Bạn có thể dùng ảnh động hoặc mã hóa code HTML để bình luận.